Những Vấn Đề Xung Quanh Việc Giám Định Và Phân Chia Tài Sản
Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
“Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;”
“Vấn Đề Xung Quanh Việc Giám Định Và Phân Chia Tài Sản Gia Đình”
Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin được đề cập đến tính khả thi của quy định
“Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật”
Thứ nhất, về quyền được đề nghị giám định, định giá tài sản
Theo quy định , đây là quyền của bị can, bị cáo, bị hại hoặc đại diện của họ. Xoay quanh quy định này hiện có những cách hiểu khác nhau sau:
Theo quy định giám định, định giá tài sản theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Riêng về định giá tài sản,
“Việc yêu cầu định giá tài sản để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
Do vậy, cũng không cần thiết phải quy định bổ sung quyền của bị hại và đại diện hợp pháp của họ theo như điểm d khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015. Bởi kết luận giám định, định giá tài sản trong vụ án hình sự là nguồn chứng cứ, mà theo đó, trong những vụ án cụ thể nếu không có nguồn chứng cứ này thì cơ quan tiến hành tố tụng không thể có đủ cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đúng theo quy định của pháp luật.
+ Cách hiểu thứ hai: Vì đó là quyền của bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện của bị hại, nên cần phải được quy định rõ trong luật để đảm bảo sự logic và thể hiện sự tôn trọng quyền con người, quyền công dân của Nhà nước ta, dù trên thực tế quyền đó đương nhiên được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng theo thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.
“Giám Định Và Phân Chia Tài Sản”
Xuất phát từ thực tiễn xét xử, theo quan điểm của tác giả, việc nhà làm luật ghi nhận quyền được đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiến hành giám định, định giá tài sản để phục vụ việc điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội là rất cần thiết là điều không thể thiếu đối với nền tư pháp văn minh.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở nội dung đề nghị giám định, định giá tài sản thì chưa đủ và trong nhiều trường hợp dẫn đến sự “bế tắc” trong quan điểm xử lý giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và cả những người cùng tiến hành tố tụng trong vụ án đó với phía bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện của bị hại, bởi nếu trường hợp bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện của bị hại không đồng ý với kết quả giám định, định giá tài sản lần đầu thì họ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại, định giá lại tài sản hoặc đề nghị giám định bổ sung hoặc định giá bổ sung tài sản không? Nếu không thì tại sao?
Câu trả lời chắc chắn sẽ là do luật không quy định! Nhưng tại sao nhà làm luật không quy định cho họ có quyền đề nghị giám định lại, định giá lại tài sản hoặc quyền đề nghị giám định bổ sung, định giá bổ sung tài sản?
Quyền đề nghị giám định bổ sung
Như vậy, đối chiếu với các quyền được liệt kê từ điểm a đến điểm o khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015, người bị hại không có quyền được đề nghị giám định bổ sung! Nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn xem xét chấp nhận yêu cầu của họ vì hợp lý. Đó là chưa kể đến trường hợp còn có tổ chức giám định áp dụng “nhầm” văn bản để kết luận giám định, đó là, lẽ ra kể từ ngày 15/8/2014 các tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần khi thực hiện việc giám định phải căn cứ vào Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014, quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, nhưng lại áp dụng quy định tại Thông tư số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTB&XH, ngày 27/9/2013 của Bộ Y tế – Bộ Lao động thương binh và Xã hội quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp.
Tuy giữa các bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích, do bệnh tật của hai Thông tư này nhiều nội dung giống nhau, nhưng cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đó là không giống nhau, cụ thể: Nếu như căn cứ pháp lý được viện dẫn tại Thông tư 20/2014/TT-BYT, gồm: Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13; Nghị định số 85/2013/NĐ-CP, ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp, thì với Thông tư 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTB&XH, gồm: Bộ luật lao động số 10/2012/QH13; Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11; Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11; Nghị định 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013; Nghị định 31/2013/NĐ-CP, ngày 09/4/2014 của Chính phủ.
Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 214; khoản 3 Điều 222 BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định; đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại….”; “Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận định giá; đề nghị định giá lại…”. Từ đó có thể thấy, quy định như tại điểm g khoản 2 Điều 60; điểm d khoản 2 Điều 61; điểm d khoản 2 Điều 62 BLTTH năm 2015 là không cần thiết, bởi đó là lẽ đương nhiên mà cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải làm, vì đó là quy định bắt buộc của luật. Chẳng hạn, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người bị buộc tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nay là Điều 173 BLHS năm 2015 , bên cạnh việc thu thập tài liệu chứng minh nguồn gốc tài sản, hóa đơn chứng từ (nếu có), quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại về tài sản, …thì một trong những việc mà cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét đến, đó là xác định giá trị của tài sản bị trộm cắp theo người bị hại trình báo là bao nhiêu, để có cơ sở pháp lý xác định giá trị tài sản đó, theo quy định của pháp luật tố tụng phải có kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá. Để có kết luận định giá này, cơ quan điều tra không thể yêu cầu người bị khởi tố hoặc người bị hại phải thực hiện quyền đề nghị định giá tài sản. Vấn đề đặt ra, nếu cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu họ thực hiện quyền đề nghị định giá tài sản trong vụ án, nhưng họ không thực hiện, thì liệu rằng cơ quan tiến hành tố tụng có “xếp” hồ sơ vụ án lại không? Hay vẫn phải tiếp tục tiến hành hoạt động điều tra, vì theo nguyên tắc cơ bản ghi nhận tại Điều 15 BLTTHS năm 2015, trách nhiệm đó thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Chủ thể có trách nhiệm yêu cầu định giá tài sản trong những trường hợp như thế chính là cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vụ án đó, cụ thể hơn, đó là, Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan điều tra (điểm d khoản 2 ; khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015). Nên việc quy định bị can, bị cáo, bị hại có quyền “đề nghị định giá tài sản theo quy định của pháp luật” tại điểm g khoản 2 Điều 60; điểm d khoản 2 Điều 61; điểm d khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 là có sự chồng chéo lẫn nhau và rất thiếu tính khả thi.
Thứ hai, liên quan đến quyền của bị can, bị cáo, bị hại về quyền của họ đối với kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 của các điều 214, 222 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định kết luận định giá tài sản; được đề nghị giám định bổ sung, giám định lại; được đề nghị định giá lại tài sản. Trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Trước hết, nội dung quy định trên chỉ quy định, cơ quan tiến hành tố tụng vụ án (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có quyền không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác về kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, nhưng căn cứ vào cơ sở pháp lý nào để họ từ chối đề nghị thì hiện luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan chưa quy định. Rõ ràng, đây là “kẽ hở” khá lớn. Lẽ ra khi quy định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định (Điều 206), thì nhà làm luật cũng cần đặt ra quy định các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng từ chối đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác về giám định bổ sung, giám định lại; định giá lại tài sản có như vậy mới bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng. Bởi luật lại không quy định cụ thể những trường hợp nào mà cơ quan tiến hành tố tụng không được từ chối đề nghị của họ, nghĩa là, nếu không “rơi” vào những trường hợp quy định đó thì được quyền không chấp nhận đề nghị giám định bổ sung, giám định lại; định giá lại. Cũng tại bởi do không được quy định cụ thể, nên rất có thể cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết đề nghị của đương sự theo cảm tính chủ quan, dễ dẫn đến tùy tiện, không theo một chuẩn mực nào. Thiết nghĩ để tránh bị lạm dụng cũng như kịp thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác liên quan đến nội dung này, các cơ quan tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết vấn đề đã nêu, bởi không phải mọi trường hợp quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám định viên và cả hội đồng định giá đều luôn luôn đúng!
Thứ ba, cụm từ “người tham gia tố tụng khác” theo quy định tại Điều 214, Điều 222 BLTTHS năm 2015, được hiểu là những ai? Phải chăng là người đại diện của bị can, bị cáo, bị hại, người bào chữa, người mà bị hại hoặc đại diện của bị hại ủy quyền tham gia tố tụng? Sở dĩ phải nêu lên vấn đề như thế, bởi thực tế quy định tại khoản 2 Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015 chỉ đề cập đến quyền của bị can, bị cáo mà không quy định quyền của người đại diện cho họ. Theo quy định của pháp luật, người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi, không mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do mình gây ra. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 không sử dụng thuật ngữ “người đại diện hợp pháp”, mà chỉ dùng thuật ngữ “người đại diện”. Ví dụ: Bị hại hoặc người đại diện của họ (khoản 2 Điều 62); Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn;… Trong những trường hợp, bị can, bị cáo, bị hại là người khuyết tật nặng nhưng đã thành niên mà họ từ chối đề nghị trợ giúp pháp lý thì người đại diện của họ có được thực hiện quyền đề nghị trợ giúp pháp lý thay cho bị can, bị cáo, bị hại không? Đây là vấn đề còn đang tranh cãi bởi do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa hướng dẫn cụ thể. Thực tế cho thấy, người khuyết tật không đề nghị được trợ giúp pháp lý có nhiều lý do, như: trình độ hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế, thiếu thông tin và nhận thức không đúng, không đầy đủ về ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý, nhiều trường hợp họ còn cho rằng Trợ giúp viên pháp lý là “người” của công an, viện kiểm sát; phần lớn họ thuộc đối tượng mù chữ hoặc tái mù chữ; … Do vậy, theo quan điểm của tác giả, pháp luật của Nhà nước ta cũng cần quy định cho phép người đại diện của người bị khuyết tật nặng thực hiện các quyền mà pháp luật hiện hành đã dành cho bị can, bị cáo, bị hại là đối tượng người khuyết tật nêu trên, có như vậy mới khẳng định tính nhân văn của nền tư pháp nước nhà, đó cũng là “điểm sáng”; tính ưu việt của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta được thể chế hóa bằng những quy định cũ thể trong pháp luật hình sự nói riêng. Trong điều kiện pháp luật thực định chưa quy định rõ ràng, chắc chắn trong thực tiễn áp dụng sẽ gặp nhiều vướng mắc, nếu như không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể.
Trên đây là vài ý kiến của tác giả, qua nghiên cứu một số quy định của BLTTHS năm 2015 xoay quanh quy định liên quan đến quyền đề nghị giám định, định giá tài sản của bị can, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi cùng Quí bạn đọc.
Nguồn bài viết: http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1991
Công ty Thẩm định Giám Định Giá tại TPHCM – Vaska Trân Trọng cảm ơn quý khách đã ghé thăm và ủng hộ dịch vụ của công ty